Vấn đề cơ bản của triết học: Gồm hai mặt là bản thể luận và
nhận thức luận.
Bản thể luận: Trả lời câu hỏi giữa vật chất và ý thức cái
nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Việc trả lời câu hỏi
này cho chúng ta biết lập trường triết học của người nói và duy vật, duy tâm
hay nhị nguyên.
* Trường phái triết học duy vật cho rằng vật chất có trước ý
thức, vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và quyết định ý thức, ý
thức phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người.
Trong LSTH có khá nhiều loại hình chủ nghĩa duy vật khác
nhau:
* Chủ nghĩa duy vật cổ dại Hy Lạp - La Mã với những đại diện
nổi tiếng từ hơn 2000 năm, nhiều trường phái hiện nay đã được bắt nguồn từ trường
phái triết học này. Chủ nghĩa duy vật trực quan thô sơ mộc mạc dựa trên những
quan sát trực tiếp.
- Đêmôcrit: Học thuyết về nguyên tử cho rằng nguyên tử là
thành phần nhỏ bé nhất của vật chất.
- Hêraclit: Ông được coi là nhà biện chứng vĩ đại thời cổ đại.
- Epi quya: Người phát triển học thuyết nguyên tử. Ba đại diện
này đã tạo thành đường lối triết học. Đêmôcrit trong triết học cổ đại.
* Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII: Là chủ nghĩa duy vật
siêu hình. Thời trung cổ khoa học cũng như triết học không phát triển dưới sự
kìm kẹp của nhà thờ.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình xem xét sự vật trong trạng thái
tĩnh, không vận động, không phát triển trong trạng thái cô lập, không liên quan
đến các sự vật hiện tượng khác, nó đối lập với chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình có 3 trung tâm lớn là: Anh (với
các đại diện như: F.Bêcơn, T.Hopxơ, G.Lôcơ); Hà Lan (B.xpinoda); Pháp (Hênnntiuyt,
Điđrô, Lemetri).
- Chủ nghĩa duy vật nhân bản: Lấy con người làm đối tượng
nghiên cứu chính, là mục tiêu triết học phải phục vụ. Trường phái sau này được
Mác kế thừa và phát triển.
- Chủ nghĩa duy vật tầm thường: Khi giải thích về ý thức họ
đã tầm thường hoá quan điểm này. ý thức là một dạng của vật chất như là gan và
mật vậy (Mô tả Lơ sốt và Bukhơme).
Trường phái triết học
duy tâm (khách quan, chủ quan,duy ngã) thừa nhận tinh thần, ý thức là cái có
trước, cái quyết định, vật chất là cái có sau -cái bị quyết định. Chủ nghĩa duy
tâm được thể hiện qua hai trào lưu chính:
+ Chủ nghĩa duy vật khách quan: coi tinh thần tư duy tồn tại
độc lập, bên ngoài con người (Platon, Hêghen).
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận ý thức tồn tại trong
trí óc của con người (Beccơli, Hium, Fichtê). Chính tư duy, cảm giác của con
người sinh ra sự vật. Beccơli nói: "khi tôi không suy nghĩ vẫn còn người
khác suy nghĩ. Khi không có ai suy nghĩ vẫn còn thượng đế suy nghĩ. Thế giới
không bao giờ mất đi". Ông đã chuyển dần sang duy ngã.
+ Duy ngã: chủ nghĩa duy tâm chủ quan được phát triển đến tột
độ là chủ nghĩa duy ngã "chỉ có tư duy của tôi" (Hium).
* Trường phái nhị nguyên luận: tư duy và tồn tại, vật chất
và ý thức không cái nào có trước, không cái nào có sau, không cái nào quy
đinkhj cái nào, chúng cùng song song tồn tại với nhau.
Mặt thứ hai: Nhận thức luận: trả lời câu hỏi con người có thể
nhận thức được thế giới hay không?
Việc trả lời câu hỏi này cho chúng ta biết
ai là người khả tri và ai là người bất khả tri.
+ Thuyết khả tri: cho rằng con người có thể nhận thức được
thế giới.
Các nhà triết học duy vật cho rằng: con người có khả năng nhận
thức được thế giới như nó tồn tại.
Các nhà triết học duy tâm cho rằng: nhận thức được thế giới
như sản phẩm của tinh thần.
+ Thuyết khả tri: cho rằng con người không thể nhận thức được
thế giới, không thể nhận ra đâu là duy vật, đâu là duy tâm. Số người bất khả
tri là nhỏ.
Cantơ: Lúc là nhà duy vật, lúc là nhà duy tâm, lúc là bất khả
tri.
Hium: Con người không thể nhận biết được thế giới hoặc chưa
nhận biết được hiện tượng của sự vật.
Hơcxli: Thừa nhận vật chất có ý thức, nhưng lại cho rằng con
người không thể nhận biết được thế giới.
Tags:
Tư liệu Mác - Lênin